top of page
Khay thử xét nghiệm kháng nguyên vi rút Panleukopenia mèo

Khay thử xét nghiệm kháng nguyên vi rút Panleukopenia mèo

Khay thử Ringbio Feline Panleukopenia Virus (FPV) Ag Rapid Test Card là xét nghiệm sắc ký miễn dịch dùng để định tính phát hiện kháng nguyên vi rút panleukopenia (FPV) trong mẫu phân mèo.

 

CHỈ DÙNG TRONG THÚ Y

 

Tính năng

- Sẵn sàng để dùng ngay cho chủ vật nuôi và bác sĩ thú y

- Không yêu cầu thiết bị chuyên dụng

- Đọc kết quả trong vòng 10 phút

 

Thành phần xét nghiệm

1. Khay thử FPV Ag: 20

2. Ống dung dịch đệm: 20

3. Pipet nhựa 0.5ml: 20

4. HDSD: 1

 

Thông tin cơ bản

Giảm bạch cầu ở mèo (FP) là một bệnh do virus rất dễ lây lan ở mèo do parvovirus ở mèo gây ra, do đó parvovirus ở mèo còn được gọi là virus giảm bạch cầu ở mèo. Mèo con bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi virus. Không nên nhầm lẫn tên bệnh sốt rét ở mèo và bệnh parvo ở mèo với bệnh sốt rét ở chó hoặc bệnh parvo ở chó— mặc dù tên của chúng giống nhau nhưng chúng được gây ra bởi các loại vi-rút khác nhau. Virus không lây nhiễm sang người. Parvovirus ở mèo lây nhiễm và giết chết các tế bào đang phát triển và phân chia nhanh chóng, chẳng hạn như các tế bào trong tủy xương, ruột và thai nhi đang phát triển.

 

Giảm bạch cầu ở mèo là gì?

Giảm bạch cầu ở mèo (FP) là một bệnh do virus rất dễ lây lan ở mèo do parvovirus ở mèo gây ra. Mèo con bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi virus. Không nên nhầm lẫn tên bệnh sốt rét ở mèo và bệnh parvo ở mèo với bệnh sốt rét ở chó hoặc bệnh parvo ở chó - mặc dù tên của chúng giống nhau nhưng chúng được gây ra bởi các loại vi-rút khác nhau. Virus không lây nhiễm sang người. Parvovirus ở mèo lây nhiễm và giết chết các tế bào đang phát triển và phân chia nhanh chóng, chẳng hạn như các tế bào trong tủy xương, ruột và thai nhi đang phát triển.

 

Những con mèo nào dễ bị FP?

Vì vi-rút FP có ở khắp mọi nơi trong môi trường nên hầu như tất cả mèo con đều có thể tiếp xúc với vi-rút tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời của chúng. Mặc dù mèo ở mọi lứa tuổi đều có thể bị nhiễm parvovirus gây bệnh FP, nhưng mèo con, mèo ốm và mèo chưa được tiêm phòng là những đối tượng dễ mắc bệnh nhất. Bệnh thường thấy nhất ở mèo 3-5 tháng tuổi; tử vong do FP phổ biến hơn ở độ tuổi này. Virus này đã xuất hiện ở mọi nơi trên nước Mỹ và hầu hết các quốc gia trên thế giới. Chuồng trại, cửa hàng thú cưng, nơi trú ẩn cho động vật, đàn mèo hoang chưa được tiêm phòng và các khu vực khác nơi các nhóm mèo nuôi chung dường như là những ổ chứa chính của FP. Trong những tháng ấm áp, các khu vực thành thị có thể sẽ bùng phát bệnh FP vì mèo có nhiều khả năng tiếp xúc với những con mèo khác hơn.

 

Mèo bị nhiễm bệnh như thế nào?

Mèo có thể thải vi-rút qua nước tiểu, phân và dịch tiết mũi; Nhiễm trùng xảy ra khi mèo nhạy cảm tiếp xúc với những chất tiết này hoặc thậm chí là bọ chét từ mèo bị nhiễm bệnh. Mèo bị nhiễm bệnh có xu hướng phát tán vi-rút trong một khoảng thời gian tương đối ngắn (1-2 ngày), nhưng vi-rút có thể tồn tại đến một năm trong môi trường, vì vậy mèo có thể bị nhiễm bệnh mà không tiếp xúc trực tiếp với người bị nhiễm bệnh. con mèo. Bộ đồ giường, chuồng, đĩa đựng thức ăn và bàn tay hoặc quần áo của người tiếp xúc với con mèo bị nhiễm bệnh có thể chứa vi-rút và truyền sang những con mèo khác. Vì vậy, việc cách ly mèo bị nhiễm bệnh là rất quan trọng. Không nên sử dụng hoặc cho phép sử dụng bất kỳ vật liệu nào được sử dụng trên hoặc cho mèo bị nhiễm bệnh để tiếp xúc với những con mèo khác và những người xử lý mèo bị nhiễm bệnh nên thực hành vệ sinh đúng cách để ngăn ngừa lây nhiễm. Virus gây bệnh FP rất khó tiêu diệt và kháng lại nhiều loại thuốc khử trùng. Lý tưởng nhất là không nên cho mèo chưa được tiêm phòng vào khu vực có mèo bị nhiễm bệnh - ngay cả khi khu vực đó đã được khử trùng.

 

FP được chẩn đoán như thế nào?

Các dấu hiệu của FP có thể khác nhau và có thể giống với các bệnh khác như nhiễm khuẩn Salmonella hoặc Campylobacter, viêm tụy, nhiễm vi rút suy giảm miễn dịch ở mèo (FIV) hoặc nhiễm vi rút bệnh bạch cầu ở mèo (FeLV). Mèo bị nhiễm bệnh thậm chí có thể có các dấu hiệu giống với dấu hiệu khi mèo bị nhiễm độc hoặc nuốt phải vật lạ. Virus FP gây tổn thương các tế bào lót trong ruột. Nó cũng tấn công tủy xương và các hạch bạch huyết, dẫn đến thiếu hụt tất cả các loại tế bào bạch cầu (giảm bạch cầu) và hồng cầu (thiếu máu). Những dấu hiệu rõ ràng đầu tiên mà chủ sở hữu có thể nhận thấy bao gồm trầm cảm toàn thân, chán ăn, sốt cao, hôn mê, nôn mửa, tiêu chảy nặng, chảy nước mũi và mất nước. Mèo bị bệnh có thể ngồi lâu trước bát nước nhưng không uống nhiều nước. Ở một số con mèo, cơn sốt sẽ đến và đi trong thời gian bị bệnh và đột ngột giảm xuống mức thấp hơn bình thường ngay trước khi chết. Ở mèo con, virus cũng có thể gây tổn thương não và mắt. Mèo cái mang thai bị nhiễm vi-rút và bị bệnh (ngay cả khi chúng không có biểu hiện bệnh nặng) có thể sẩy thai hoặc sinh ra mèo con bị tổn thương nghiêm trọng ở tiểu não, một phần não điều phối các dây thần kinh, cơ và xương để tạo ra Vận động cơ thể. Những chú mèo con này sinh ra đã mắc một hội chứng gọi là mất điều hòa tiểu não và cử động của chúng kèm theo những cơn run rẩy nghiêm trọng (run rẩy). Bệnh giảm bạch cầu ở mèo có thể bị nghi ngờ dựa trên tiền sử tiếp xúc với mèo bị nhiễm bệnh, thiếu tiêm phòng và các dấu hiệu bệnh tật rõ ràng. Khi tiền sử phơi nhiễm đó kết hợp với các xét nghiệm máu cho thấy mức độ giảm nghiêm trọng của tất cả các loại tế bào bạch cầu, thì FP có thể là nguyên nhân gây bệnh cho mèo. FP được xác nhận khi tìm thấy parvovirus ở mèo trong phân của mèo, nhưng kết quả có thể dương tính giả nếu mèo được tiêm phòng FP trong vòng 5-12 ngày trước khi xét nghiệm.

bottom of page